- Giao hàng bởi nhân viên Viettel Post, VietNam Post...
- Giao hàng trên Toàn Quốc
- Chỉ Ship đơn hàng từ 140.000đ trở lên
- Nhận hàng rồi mới thanh toán tiền (COD)
Tác giả: Nguyễn Quốc Vương
Nhà xuất bản: Phụ Nữ
Năm xuất bản: 2021
Số trang: 308
Khổ sách: 15 x 23 cm
Giao sách trên toàn quốc.
Sách được phát hành với giá ưu đãi...
Vui lòng liên hệ trực tiếp: 0908 016 729 - 0933 241 170
Miễn phí vận chuyển
Cho hóa đơn trên 250.000đ
Là một người quan tâm đến giáo dục và mong muốn đóng góp vào công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam, trong thời gian du học tại Nhật Bản, nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Vương đã tìm tòi nghiên cứu và có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu có tính phản biện và đưa ra các phân tích mang tích độc lập về các vấn đề nóng của giáo dục Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy hầu hết các vấn đề của giáo dục Việt Nam hiện nay còn đang tranh cãi thì ở Nhật đã gặp phải, cũng như đã giải quyết được cách đây hơn 70 năm. Và để có được một xã hội Nhật Bản thịnh vượng như ngày nay, Nhật Bản đã phải trải qua công cuộc cải cách giáo dục một cách toàn diện, thậm chí chấp nhận xóa bỏ toàn bộ nền giáo dục trước đó. Chương trình giáo dục phổ thông Nhật Bản đã đổi mới thành công bởi các nhà quản lý giáo dục Nhật Bản: Chú trọng “cải cách giáo dục từ dưới lên”; coi Chương trình chỉ là tham khảo; Các môn học và phương pháp kiểm tra, đánh giá mới hoàn toàn mới so với trước.
“ Sau khi chính quyền Minh Trị được thiết lập năm 1868, trong vòng 10 năm đầu, quá trình cận đại hóa theo hướng “khai hóa văn minh” được xúc tiến mạnh mẽ. Cải cách giáo dục đã đi từ các thay đổi lẻ tẻ ở địa phương trở thành chính sách quốc gia. Phương châm của chính phủ Minh Trị lúc đó là đẩy mạnh cải cách giáo dục để cận đại hóa đất nước, du nhập nhanh và rộng các giá trị văn minh phương Tây. Để “nhập khẩu” văn minh, chính phủ Minh Trị đã cử học sinh ra nước ngoài du học và tích cực sử dụng người phương Tây trong vai trò là các chuyên gia, cố vấn.”
“Ở Nhật Bản trước Chiến tranh thế giới thứ hai, “triết lý giáo dục” không được coi trọng hay nói khác đi là không được ý thức đầy đủ. Nền giáo dục khi ấy được vận hành chủ yếu bởi các nguyên lý bất biến được xác định bởi “Học chế” và “Sắc chỉ giáo dục” do Thiên hoàng Minh Trị ban hành. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, dựa trên nền tảng của Hiến pháp 1946, triết lý giáo dục mới được xây dựng. Triết lý này được ghi rõ trong các bộ Luật về giáo dục như: Luật giáo dục cơ bản, Luật giáo dục nhà trường, Luật về Ủy ban giáo dục…Trong các bản Hướng dẫn học tập phần đầu tiên bao giờ cũng là phần trích dẫn những nội dung quan trọng nhất của Luật giáo dục cơ bản, Luật giáo dục trường học và Quy tắc thực thi Luật giáo dục trường học. Ở đó, triết lý giáo dục được trang trọng đặt ở chương đầu tiên “Mục đích và triết lý giáo dục”. Triết lý giáo dục mới này được thể hiện tập trung ở mục tiêu giáo dục nên người công dân có đầy đủ tri thức, phẩm chất, năng lực phù hợp với xã hội dân chủ, hòa bình, tôn trọng con người.”
Từ việc so sánh về giáo dục Việt Nam và Nhật Bản, tác giả đưa ra kết luận: Ở Việt Nam cho đến nay “triết lý giáo dục” vẫn là một thuật ngữ chuyên môn tương đối mới và xa lạ. Trong các văn bản quản lý giáo dục và thậm chí trong Hiến pháp, Luật giáo dục cũng không hề thấy xuất hiện thuật ngữ này mặc dù đối với một nền giáo dục “Triết lý giáo dục” là vô cùng quan trọng. Vì vậy, về lâu dài muốn xây dựng được nền giáo dục dân tộc, hiện đại và hội nhập quốc tế thì chắc chắn vấn đề “triết lý giáo dục” cần phải được giải quyết thấu đáo. Giáo dục Việt Nam cần đến một triết lý thu nhận được sự đồng thuận của đông đảo nhân dân và phù hợp với những giá trị phổ quát của nhân loại. Một khi có triết lý giáo dục rõ ràng, cải cách giáo dục sẽ diễn ra thuận lợi tạo nên những thay đổi tích cực.
Tác giả khẳng định, nếu không có một Triết lý giáo dục rõ ràng thì dù có nhập khẩu các chương trình giáo dục nổi tiếng, đã thành công trên thế giới, hay việc tìm tới những phương pháp giảng dạy tối ưu càng khiến giáo dục Việt Nam rơi vào tình trạng rối như bế tắc và có những biến tướng khó có thể chấp nhận.
MỤC LỤC
PHẦN I. GIÁO DỤC VIỆT NAM VÀ GIÁO DỤC NHẬT BẢN
1. Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản?
2. Cải cách giáo dục từ dưới lên
3. “Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông như bài thơ viết vội
4. Một chương trình-nhiều bộ sách giáo khoa: Những điều kiện đủ
5. Ý nghĩa của cơ chế “một chương trình, nhiều sách giáo khoa”
6. Khi người thầy nhầm lẫn “quyền lực” với “quyền uy”
7. Lớp trưởng là chủ tịch: Đừng “chế Mercedes thành công nông”!
8. Tại sao không dạy nghề mà chỉ là “định hướng nghề nghiệp”?
9. Tại sao không phải là ‘con đại gia đỗ thủ khoa’?
10. Chỉ vì chữ “tác” thành chữ “tộ”
11. Nhật Bản cải cách giáo dục như thế nào?
12. Chương trình giáo dục phổ thông Nhật Bản-bước ngoặt về tư duy giáo dục
13. Chương trình giáo dục phổ thông Nhật Bản được tạo ra như thế nào?
14. Yếu tố tạo ra thành công của cải cách giáo dục Nhật Bản
15. Đánh giá học sinh ở Nhật khác gì ở Việt Nam?
16. Du học Nhật Bản: không có chỗ cho người mơ mộng
17. Sau 1945, học sinh Nhật Bản đã học những “kĩ năng sống” nào?
18. Từ chuyện tổ chim ngẫm về giáo dục Tính “địa phương” trong giáo dục phổ thông – một bài học sâu sắc.
PHẦN II. GIÁO DỤC LỊCH SỬ Ở VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN
1. Hướng đi nào cho giáo dục lịch sử ở Việt Nam?
2. "Đơn thuốc nào cho căn bệnh “giáo dục lịch sử”
3. Đối thoại hậu bài viết “Đơn thuốc cho giáo dục lịch sử”
4. Học tập nước ngoài, nhưng cẩn thận mắc ‘bệnh hình thức’
5. Khi học sinh không chọn môn Sử thi tốt nghiệp phổ thông trung học
6. Khám phá, giải mã quá khứ qua lịch sử
7. Môn Sử ‘biến mất’ và thách thức chưa từng có của Bộ Giáo dục
8. Lịch sử phải là môn “khoa học” trước khi thành môn “bắt buộc”
9. Dạy học tích hợp có mâu thuẫn với sự độc lập của môn Lịch Sử?
10. Thư một học sinh gửi người lớn: Không chọn thi môn Sử có gì là sai?
11. Thử phát triển “nhận thức lịch sử khoa học” và “phẩm chất công dân” cho học sinh lớp 8 qua thực tiễn dạy học lịch sử ở Trường THCS và THPT Nguyễn Tất Thành.
12. Cải cách giáo dục lịch sử trong trường phổ thông Nhật Bản thời hậu chiến (1945-1950) và những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam
13. Tìm hiểu về ba hình thái giáo dục lịch sử trong trường phổ thông Nhật Bản từ sau 1945
14. Sách giáo khoa lịch sử Nhật Bản: Nơi học sinh lớp 6 có thể là nhà sử học
Tác giả:
Nguyễn Quốc Vương đã từng làm giảng viên Khoa Lịch sử - Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
Làm nghiên cứu sinh tại Nhật Bản, anh tâm huyết với các vấn đề giáo dục của nước nhà và có nhiều bài viết, dịch về các vấn đề liên quan đến giáo dục, cải cách giáo dục và so sánh giáo dục Việt Nam và Nhật Bản.
Hiện nay anh là nhà nhà phê bình tự do và tập trung cho các hoạt động khuyến đọc.
Tác phẩm đã xuất bản:
Các tác phẩm đã dịch:
1. Cải cách giáo dục Nhật Bản - Ozaki Mugen, NXB Từ điển Bách Khoa và Thaihabooks, 2014
2. Sổ tay giáo dục gia đình Nhật Bản, Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản, NXB Phụ nữ và Công ty cổ phần Sách Truyền thông Quảng Văn, 2016
3. Hướng dẫn học tập môn xã hội, tập 1, Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học Công nghệ Nhật Bản, NXB Đại học Sư Phạm, 2016
4. Hướng dẫn học tập môn xã hội, tập 2, Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học Công nghệ Nhật Bản, NXB Đại học Sư Phạm, 2017
Tác phẩm sáng tác:
1. Điều bí mật trong vườn (thơ), NXB Văn học, 2015.
2. Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản, NXB Phụ nữ, 2016
3. Môn Sử không chán như em tưởng, NXB Phụ nữ, 2017
4. Mùi của cố hương, NXB Phụ nữ, 2017
5. Đi tìm triết lý giáo dục
Nhà xuất bản Phụ nữ xin trân trọng giới thiệu.
Trích một số bài viết trong sách:
“70 năm sau ngày độc lập Việt Nam lại đứng trước những thử thách và lựa chọn quan trọng trong cuộc cải cách giáo dục lần thứ tư.
Hơn lúc nào hết giáo dục đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của người dân cả nước. Ở đó, người dân đủ mọi thành phần thông qua truyền thông đại chúng, mạng xã hội và các diễn đàn khác, đang hàng ngày thể hiện sự lo lắng trước hiện trạng giáo dục và kỳ vọng vào cải cách. Nỗi lo lắng và niềm hy vọng ấy của người dân là dễ hiểu. Đơn giản vì giáo dục có tác động trực tiếp đến mọi gia đình trong xã hội và quyết định đến sự hưng vong của dân tộc. Cải cách thực sự và triệt để là phương thức hữu hiệu để giải quyết các vấn đề đang ngày một trở nên trầm trọng trong nền giáo dục của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, để đi tới thành công cải cách giáo dục phải đáp ứng được nguyện vọng của người dân và phù hợp với xu hướng chung của giáo dục thế giới trong thời đại toàn cầu hóa. Vì thế, trong quá trình thiết kế và thực thi cải cách giáo dục, sẽ có hai công việc cần phải được tiến hành:
Thứ nhất là xem xét lại toàn bộ nền giáo dục từ trước đến nay để phân tích, tìm ra những ưu điểm cần lưu giữ, phát triển và những vấn đề cần phải giải quyết.
Thứ hai là nghiên cứu giáo dục thế giới, đặc biệt là giáo dục ở các nước tiên tiến để tham khảo, học hỏi từ đó xây dựng phương án cải cách phù hợp.
Cả hai công việc đó đều cần đến tư duy và thao tác so sánh. Giáo dục Việt Nam chỉ có thể được nhận thức một cách khách quan, toàn diện và sâu sắc khi nó được tham chiếu, so sánh với giáo dục ở các nước khác. Với tư cách là một người làm giáo dục và muốn đóng góp vào công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam, tôi đã sử dụng tư duy so sánh nói trên để nhận thức về giáo dục Việt Nam. Những bài viết được tập hợp trong cuốn sách có tên “Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản?” này là kết quả của việc so sánh giáo dục Việt Nam và Nhật Bản được tôi tiến hành từ năm 2009 đến nay.
Hy vọng, thông tin từ các bài viết trong cuốn sách nhỏ này sẽ có ích cho bạn đọc trong quá trình nhận thức về giáo dục và góp phần thúc đẩy cải cách giáo dục ở Việt Nam sớm thành công.”
Nguyễn Quốc Vương